Chương 3: Chính Thê Hầu Phủ
Ta sinh con vào đầu thu, năm thứ hai kể từ khi bước chân vào phủ Vĩnh Xương Hầu. Trải qua một ngày một đêm vật lộn, cuối cùng ta cũng hạ sinh trưởng tử cho dòng họ. Đến lễ đầy tháng của con, mẹ và chị dâu ta đến thăm, trên gương mặt mẹ là niềm vui rạng rỡ. “Không ngờ cuộc sống của con ở Hầu phủ lại thuận lợi đến vậy,” mẹ nhẹ nhàng nắm tay ta, ánh mắt đầy tự hào.
Chuyện của Thiền Thiền được giữ kín như bưng, bên ngoài chỉ đồn rằng Vĩnh Xương Hầu đã cho một người thiếp lâu năm rời phủ. Còn Nguyệt Nương vẫn đảm nhiệm việc quản sự, nhưng giữa ta và nàng ấy, nước sông không phạm nước giếng, coi như yên ổn. Dù sao thì ta cũng đã sinh được đích trưởng tử cho Hầu phủ – điều kiện tiên quyết để giữ vững vị trí chủ mẫu. Hoàng đế ban hôn vốn là chuyện lớn, ân sủng của hoàng gia vừa là phúc, vừa là họa. Cha mẹ từng lo lắng ta không chịu nổi sóng gió, sợ ta không đấu lại hai vị thiếp, nhưng rốt cuộc ta đã làm được điều không ai ngờ: thuận lợi sinh ra người thừa kế.
Ta mỉm cười nói với mẹ: “Con đã từng nói rồi, con làm được mà.” Để trở thành chủ mẫu Hầu phủ, điều đầu tiên là phải sinh con trai nối dõi, thứ hai là nắm quyền quản sự, và cuối cùng là không để bản thân vướng bận tình cảm với chồng. Ta đã hoàn thành hai điều: sinh con và giữ được trái tim mình bình thản trước Chu Thế Đình. Chỉ cần lấy được quyền quản sự từ tay Nguyệt Nương, con đường lên làm chủ mẫu sẽ càng rộng mở. Tương lai, ta sẽ giống như lão phu nhân – không cần tranh đấu, chẳng phải mưu tính, chỉ việc an nhàn hưởng phúc, được người người kính trọng.
Trong thời gian ở cữ, ta lấy lý do muốn tìm nhũ mẫu cho con trai, xin mẹ chồng một phần quyền quản sự để tự lo liệu. Bà đồng ý ngay. Sắc mặt Nguyệt Nương thoáng tái đi – chỉ một chút quyền lực nhỏ bé cũng đủ khiến nàng ta cảm thấy bị đe dọa. Nhũ mẫu hỏi ta: “Người định làm gì tiếp theo? Việc quản sự ấy, nàng ta chắc chắn không muốn buông, mà lão phu nhân thì vẫn còn lưỡng lự.” Quả thực, Nguyệt Nương quản lý phủ nhiều năm, chưa từng phạm lỗi lớn, lại rất được lòng lão phu nhân. Nàng ấy là quý thiếp, không có con, nên càng trung thành với lão phu nhân, bởi chỉ có thể dựa vào bà ấy mà thôi. Lão phu nhân hiểu rõ điều này, nên không dễ gì tước quyền của Nguyệt Nương.
Ta nói với nhũ mẫu: “Ngay từ ngày ta bước vào Hầu phủ, nàng ta đã mang tâm bệnh.” Nhũ mẫu cười: “Vậy thì cứ để nàng ta chịu thêm chút áp lực nữa.” Ngay từ đầu, ta đã nói rõ với Nguyệt Nương: nếu sau này nàng có thai, không thể tiếp tục quản sự, ta sẽ thay thế. Khi chuyện của Thiền Thiền xảy ra, ta lại nhắc khéo về việc Nguyệt Nương không thể có con. Nay ta đã sinh được đích trưởng tử, chắc chắn điều này sẽ khiến nàng ta càng thêm bất an.
Sau thời gian ở cữ, cả nhà cùng dùng bữa. Nguyệt Nương đứng phía sau, giống như một quản sự bày biện thức ăn. Ta quay sang mẹ chồng: “Nội viện giờ vắng vẻ quá, mới chỉ có mỗi Quân Ca Nhi. Hay là nên nạp thêm hai thiếp thất cho Hầu gia, để sinh thêm nhiều con cái?” Chu Thế Đình lặng lẽ nhìn ta. Mẹ chồng cũng dõi theo sắc mặt ta, cố đoán xem ta thật lòng hay chỉ nói cho có.
Ta giả vờ như vừa nhận ra sự hiện diện của Nguyệt Nương: “À, còn Nguyệt Nương nữa. Nhưng muội ấy bận quản sự, làm sao có thời gian hầu hạ Hầu gia.” Rồi ta tiếp tục: “Mẹ thấy nên tìm bà mối mua hai cô gái trẻ ngoan hiền, hay chọn trong số các tiểu thư trong họ tộc, chọn lấy hai người vừa xinh đẹp vừa có đức hạnh?” Lão phu nhân còn chưa kịp đáp, Chu Thế Đình đã bất ngờ đập mạnh đũa xuống bàn.
“Đủ rồi!” Chu Thế Đình lạnh lùng cắt ngang, giọng nói vang lên đầy giận dữ. Trước mặt lão phu nhân, Nguyệt Nương và cả đám nha hoàn, bà tử trong phòng, hắn lớn tiếng với ta – điều chưa từng xảy ra trước đây. Ta chỉ lặng lẽ cúi đầu, tránh ánh mắt của hắn.
Tối hôm đó, khi trở về phòng, nhũ mẫu bế con sang cho ta, ta vui vẻ đùa với đứa trẻ. Chu Thế Đình thay y phục xong, tiến lại gần, bế lấy con trai từ tay ta. Hắn ngắm nhìn đôi mắt, hàng lông mày của đứa nhỏ rồi bất chợt nói: “Đứa trẻ này thật giống nàng, Tống Đường.” Ta đáp: “Cái miệng thì giống thiếp, còn mắt mũi lại giống Hầu gia.” Chu Thế Đình nhận xét: “Có lẽ con đói rồi, nàng bế con đi đi.” Đồng thời, hắn bảo mọi người lui ra ngoài.
Khi chỉ còn hai người trong phòng, Chu Thế Đình nghiêm giọng hỏi: “Tống Đường, nàng định nói gì với mẹ vậy?” Ta giả vờ ngơ ngác: “Hầu gia nói chuyện nào?” “Chuyện nàng đề nghị ta nạp thiếp.” Ta đáp nhẹ: “Thiếp chỉ nói thật lòng thôi, Hầu gia, thiếp…” Chưa kịp nói hết câu, hắn đã bóp chặt cằm ta, ánh mắt lạnh lẽo: “Thật lòng của nàng là muốn ta nạp thêm thiếp sao?” Chưa bao giờ ta thấy hắn dữ dằn như vậy, trong lòng không khỏi run sợ.
Chu Thế Đình lạnh lùng buông lời: “Tống Đường, nàng chưa từng thật tâm với ta.” Nói rồi, hắn quay lưng bỏ đi. Những ngày sau đó, hắn đều ngủ lại thư phòng một mình. Nguyệt Nương tranh thủ cơ hội, thường xuyên lấy cớ mang điểm tâm đến cho hắn. Vài ngày sau, lão phu nhân và Chu Thế Đình xảy ra một trận cãi vã lớn. Đám nha hoàn hốt hoảng chạy đi gọi ta tới khuyên giải.
Ta đến nơi thì nghe lão phu nhân đang tức giận chất vấn: “Người đâu rồi?” Chu Thế Đình lạnh nhạt đáp: “Xong rồi.” Mẹ chồng ta run giọng: “Nàng ấy là người được Thái hậu ban hôn, sao con dám làm càn như vậy? Con thật bất hiếu!” Chu Thế Đình chỉ đáp: “Mẹ, nàng ta đã bỏ độc vào đồ ăn của con.” Lão phu nhân ngồi phịch xuống ghế, chết lặng. Nguyệt Nương quả thực đã phạm tội, nhưng Hầu phủ chỉ thông báo ra ngoài rằng nàng ta được đưa về điền trang dưỡng bệnh. Sau này, cũng sẽ nói rằng nàng ta lâm bệnh nặng mà qua đời.
Nhờ đó, ta thuận lợi nắm quyền quản sự trong phủ. Một năm sau khi về làm dâu, ta đã vững vàng ở vị trí Hầu phu nhân. Ta có người thừa kế, nắm trong tay quyền lực, khiến những kẻ từng chê cười giờ phải ngưỡng mộ, ngay cả họ hàng thân thích cũng không khỏi bất ngờ. Danh tiếng của ta nổi khắp kinh thành.
Nửa tháng sau, Chu Thế Đình mới quay lại viện chính. Hắn ôm ta, khẽ nói: “Tống Đường, nàng không có trái tim. Nhưng ta thì có. Thôi bỏ đi.” Hắn hôn ta, rồi đẩy ta xuống giường: “Nếu sau này nàng còn dám bày mưu tính kế với ta, ta nhất định sẽ không tha cho nàng, Tống Đường.” Đó là một lời cảnh cáo.
Đúng vậy, tất cả chỉ là ván cờ mà ta đã tính toán từ lâu. Sau khi Thiền Thiền rời đi, Chu Thế Đình càng say đắm ta hơn. Ta hiểu rõ tình cảm mãnh liệt hắn dành cho mình, nên mới cố tình đề nghị nạp thiếp trước mặt hắn và mẹ chồng. Ta biết chắc hắn sẽ nổi giận, bởi hắn muốn trong mắt ta chỉ có mình hắn, muốn ta một lòng một dạ với hắn. Ta cố ý khiến hắn tức giận.
Suốt một năm, ta không ngừng gây áp lực lên Nguyệt Nương, để nỗi đau về chuyện con cái trở thành vết thương khó lành trong lòng nàng. Nhưng đàn ông mà, nếu đã không muốn thì dù có bày ra bao nhiêu món ngon, hắn cũng chẳng mặn mà gì.
Nguyệt Nương tìm mọi cách quyến rũ Chu Thế Đình, nhưng hắn chẳng hề đoái hoài, cuối cùng nàng ta đành nghĩ đến chuyện dùng thuốc mê hoặc. Chỉ cần nàng ta dám ra tay, ta sẽ cho người bí mật đánh tráo thuốc của nàng, biến thuốc kích thích thành độc dược. Vai diễn của Nguyệt Nương kết thúc tại đây. Ta vốn không định sẵn kết cục cho nàng ta: liệu nàng chỉ mất quyền quản sự, hay mất cả tính mạng, còn phải xem lão phu nhân hay Chu Thế Đình là người chiếm ưu thế cuối cùng. Nếu Chu Thế Đình muốn giao Hầu phủ lại cho mẹ mình, có lẽ Nguyệt Nương sẽ được tha; còn nếu hắn muốn dâng Hầu phủ cho chính thê, thì số phận của Nguyệt Nương đã an bài. Đạo lý này, Nguyệt Nương không hiểu, nhưng ta – người xuất thân từ thế gia – lại nắm rất rõ.
Sau khi xử lý xong Nguyệt Nương, Chu Thế Đình mới nhận ra ta đã lợi dụng lòng ghen của hắn để đạt mục đích. Có lẽ hắn cũng hiểu, ta có thể bình tĩnh sắp đặt mọi chuyện như vậy là vì ta chưa từng yêu hắn. Ta là chủ mẫu Hầu phủ, tất nhiên phải kính trọng hắn, nhưng tình cảm chỉ dừng lại ở đó. Cuối cùng, hắn lựa chọn nhượng bộ. Hắn không còn tranh cãi với ta, cũng chẳng đòi hỏi ta phải yêu thương sâu đậm nữa. Hiện tại, hắn không muốn nạp thêm thiếp, nhưng ai biết được tương lai sẽ ra sao? Ta từng nghĩ mọi chuyện đã yên ổn, rằng ta và hắn sẽ cùng nhau đi hết quãng đời còn lại: hắn lo việc bên ngoài, ta quán xuyến nội viện. Nhưng vận mệnh luôn chứa đựng những điều bất ngờ mà ta chẳng thể lường trước.
Khi con trai ta – Chu Quân – tròn một tuổi, ta lại phát hiện mình mang thai lần nữa. Lần này, thai nghén khiến ta mệt mỏi hơn hẳn, chỉ mới chậm kinh năm ngày đã bắt đầu nôn ọe. Trời vào thu mà vẫn oi bức, ta ốm nặng một trận, khiến Chu Thế Đình lo lắng không yên. Hắn vốn định ở lại chăm sóc ta, nhưng đột ngột nhận được tin khẩn nên phải rời phủ, mấy ngày liền không trở về.
Mẹ chồng nhìn cảnh ấy thì thở dài: “Giá mà Nguyệt Nương còn ở đây thì tốt quá. Con đúng là quá cố chấp.” Ta đáp lại: “Mẹ, con đã nhiều lần đề nghị nạp thiếp cho Hầu gia, là ngài ấy không đồng ý. Hơn nữa, người ra tay với Nguyệt Nương là Hầu gia chứ không phải con. Nếu nói hẹp hòi, thì mẹ con mình mới là người như vậy.” Mẹ chồng ta không ngờ ta lại dám nói thẳng, kinh ngạc đến mức không thốt nên lời, chỉ biết mắng ta ỷ được sủng ái mà sinh kiêu, không giữ lễ nghĩa. Ta đang mệt mỏi, cũng chẳng buồn tranh cãi thêm.
Tám ngày trôi qua, Chu Thế Đình vẫn chưa quay về, trong lòng ta dấy lên linh cảm chẳng lành. Ta nói với nha hoàn thân cận: “Chắc chắn bên ngoài đã xảy ra chuyện lớn.” Không khí trong viện chính lập tức trở nên căng thẳng. Ta lập tức dặn dò hạ nhân phải canh gác cẩn thận từng cánh cửa.
Đêm ấy, trời nổi cơn mưa lớn, xen lẫn tiếng sấm là âm thanh binh khí vọng lại từ xa. Ta lập tức cho người đưa con trai và mẹ chồng vào viện chính, đồng thời lệnh cho hộ vệ canh giữ nghiêm ngặt cả hai cổng, tăng cường bảo vệ xung quanh. Mẹ chồng bình tĩnh hỏi: “Đã xảy ra chuyện gì? Tiếng động ngoài kia là sao?” Ta đáp: “Trước đây, khi về phủ Quốc Công, con tình cờ nghe cha và anh bàn chuyện triều chính, nói nhà mẹ đẻ của Quý phi đang muốn đưa Thái tử lên ngôi.”
Hoàng đế vốn đã có ý phế Thái tử, nhưng phe Thái tử và nhà ngoại cũng không chịu ngồi yên, đã sớm âm mưu đoạt vị. May mắn năm xưa ta không bị chỉ hôn cho Thái tử. Mẹ chồng ta vốn yếu đuối, nhưng lúc này lại nắm chặt tay ta, cố giữ bình tĩnh: “Thời cuộc rối ren thế này, chỉ sợ sẽ có kẻ thừa cơ trục lợi.”
Ta gật đầu xác nhận. Quân phản loạn đã áp sát tận chân hoàng thành. Mưa lớn vừa dứt, nhưng tiếng binh đao ngoài kia vẫn chưa ngừng lại. Lợi dụng lúc hỗn loạn, phản quân tấn công cả vào phủ của các công thần, và một toán binh lính đã tràn vào phủ Vĩnh Xương Hầu. Ta lập tức lấy cung tên ra. Có kẻ toan trèo tường vào viện chính, ta không chần chừ, giương cung bắn thẳng một mũi tên xuyên giữa trán hắn. Các hộ vệ còn lại cũng liều mình xông lên bảo vệ.
Tới gần sáng, phủ Hầu mới tạm yên, tiếng chém giết ngoài kia cũng dịu đi. Bỗng có người hô lớn: “Hầu gia đã trở về!” Ta và mẹ chồng thở phào nhẹ nhõm. Nhưng đúng lúc ấy, một biến cố bất ngờ ập đến: một đội quân khoảng ba trăm người bất ngờ đánh thẳng vào phủ, tên cầm đầu che kín mặt khiến ta không nhận ra. Sau trận chiến đẫm máu đêm qua, lực lượng hộ vệ trong phủ đã tổn thất nặng nề. Chu Thế Đình cầm thương, cùng bảy tám hộ vệ còn lại cố gắng ngăn địch tiến vào.
Ta chạy ra khỏi nội viện, dùng cung dài hỗ trợ Chu Thế Đình. Nhưng quân địch quá đông và hung hãn, lại thêm Chu Thế Đình đã kiệt sức sau một đêm chiến đấu trong cung, nên không thể trụ được lâu. Tên đầu lĩnh che mặt xông thẳng về phía viện chính, Chu Thế Đình lao ra chặn đường, nhưng bị chém một nhát sau lưng. Ta kịp thời bắn một mũi tên xuyên thẳng cổ họng kẻ đó. Dù vết thương rất nặng, Chu Thế Đình vẫn không lùi bước, quyết bảo vệ vợ con và mẹ già đến cùng.
Khi trời vừa rạng sáng, phản quân đã bị quét sạch. Một mình Chu Thế Đình đã hạ gục hàng trăm quân địch. Hắn kiệt sức, toàn thân bê bết máu, ngồi tựa vào tường. Ta và mẹ chồng vội chạy tới, hắn chỉ tay về phía tên cầm đầu. Ta tiến lại, kéo tấm vải che mặt xuống, không ngờ đó lại chính là Thiền Thiền. Đôi mắt Chu Thế Đình khép hờ, hắn thì thầm: “Ta đã đoán nàng ta không dễ dàng chết trên đường như vậy.” Mẹ chồng ta nắm chặt tay hắn: “Thái y sắp tới rồi.” Hắn gắng mở mắt: “Mẹ, về sau đừng làm khó Đường Nhi.” Nước mắt lão phu nhân rơi xuống mu bàn tay hắn: “Sẽ không đâu.” Hắn lại nhìn về phía ta: “Tống Đường.” Ta khẽ đáp lời. Hắn lại gọi tên ta thêm lần nữa, rồi trút hơi thở cuối cùng khi mặt trời vừa mọc.
Sau đêm mưa gió kinh hoàng, ánh nắng đầu tiên rực rỡ chiếu xuống, đối lập hoàn toàn với thân thể đẫm máu của Chu Thế Đình. Ta và mẹ chồng lặng người. Chu Thế Đình – vị tướng quân từng mười bốn năm xông pha nơi biên ải – cuối cùng lại ngã xuống vì mưu đồ nơi cung đình. Đêm đó, Thái tử cũng đã chết; nhiều gia tộc lớn bị phản quân tấn công, cướp bóc, máu đổ khắp nơi. Cái tên Vĩnh Xương Hầu cũng bị chôn vùi trong trận loạn lạc ấy.
Dù đang nghén đến choáng váng, ta vẫn cố gắng lo liệu tang lễ cho chồng thật chu toàn. Nhờ công bảo vệ hoàng gia, hoàng đế truy phong Chu Thế Đình làm Vĩnh Xương Vương, phủ Hầu đổi thành phủ Vương; ta và mẹ chồng đều được sắc phong nhất phẩm phu nhân. Hoàng đế còn ban thưởng vàng bạc, ruộng đất, khiến ta trở thành quả phụ giàu có và quyền thế nhất kinh thành.
Đầu mùa hè năm sau, ta hạ sinh một cặp long phượng. Tính ra, ta và Chu Thế Đình đã có ba mặt con. Những tháng ngày sau này, ta và mẹ chồng nương tựa vào nhau, chẳng mấy bận tâm chuyện giao du bên ngoài, chỉ chăm lo nuôi dạy con cái, tận hưởng cuộc sống yên bình, giản dị.
Ta không thấy mình lẻ loi. Chu Thế Đình vẫn hiện diện, lặng lẽ ở một góc sâu trong trái tim ta. Khi hắn còn sống, ta chưa từng nghĩ sẽ yêu hắn, cũng chưa bao giờ cho phép bản thân rung động. Thế nhưng, sau khi hắn rời xa, cảm giác bâng khuâng của đêm suối nước nóng trên núi ấy cứ mãi vương vấn trong tâm trí ta. Hồi ức của ta, giống như buổi sáng hôm ấy: tuyết trắng phủ kín đất trời, xóa nhòa mọi dấu vết cũ. Khi ấy, bên cạnh Chu Thế Đình không còn bóng dáng Thiền Thiền hay Nguyệt Nương, chỉ còn lại ta và hắn giữa trời đất bao la.
Mỗi dịp lễ tết, ta đều tự mình đến viếng mộ hắn, mang theo những món bánh ngọt tự tay làm để dâng lên trước phần mộ. Ta kể cho các con nghe về những chiến công lẫy lừng của cha chúng, cũng tận tâm dạy dỗ ba đứa trẻ, hoàn thành những điều mà Chu Thế Đình từng gửi gắm. Có lẽ, chỉ khi người chồng đã khuất, người ấy mới trở thành người chồng hoàn hảo nhất.
(END)