Chương 3: Lời Từ Biệt Trong Gió
Đó là Tạ Cảnh. Đầu ngón tay hắn lạnh buốt, trên ống tay áo còn vương chút sương sớm, như thể hắn đã vượt đêm dài chỉ để tìm đến đây.
“Ta cứ ngỡ nàng về quê chăm nom mộ mẫu thân, không ngờ lại gặp nàng ở nơi này.”
Hắn nhìn ta, giọng trầm thấp:
“Bùi Nguyệt, nàng hãy nói thật cho ta biết, có phải nàng cũng đã sống lại không?”
Ta lặng người, không biết nên trả lời thế nào.
“Nếu nàng không muốn nói cũng không sao. Nhưng Bùi Nguyệt, nàng không thể thay đổi được vận mệnh đâu.”
Hắn tiếp tục, ánh mắt sâu thẳm:
“Sau khi sống lại, ta đã cố gắng minh oan cho nhà Tần La Xu, để họ tránh khỏi cảnh lao tù, để Tần La Xu không phải rơi vào kỹ viện. Kết quả, Tần gia thoát nạn, được Thánh Thượng giao cho trọng trách cứu tế, nhưng lại không hoàn thành, cuối cùng vẫn làm long nhan nổi giận.”
“Kiếp trước, Tần gia chỉ bị niêm phong tài sản, bắt giam. Đến kiếp này, cả nhà lại bị xử trảm.”
“Dù ta đã cố gắng thay đổi, mọi chuyện vẫn quay về cái kết đã định sẵn.”
Có vẻ như Tạ Cảnh còn sống lại sớm hơn cả ta.
“Ta muốn cứu một người thôi đã khó, huống hồ là thay đổi cả trận chiến. Lần này, trận chiến Nguyệt Minh không có thiên thời, địa lợi, nhân hòa; lương thảo bị cắt đứt, Ô Tạng nhân cơ hội tuyết lớn mà tập kích, tướng lĩnh bất tài khiến đại quân chịu họa lây.”
“Bùi Nguyệt, nàng phải hiểu, thất bại này là số mệnh, không phải do con người có thể xoay chuyển. Họ nhất định sẽ chết.”
Thấy sắc mặt ta lạnh lùng, Tạ Cảnh vội nắm lấy tay ta:
“Nhưng số phận của chúng ta thì có thể thay đổi. Chúng ta chưa từng trải qua ba năm đau khổ đó, vẫn còn cơ hội làm lại từ đầu…”
Ta rút tay khỏi tay hắn, những ký ức cay đắng của ba năm trước lại ùa về.
“Nếu thật như lời Vương gia nói, ba năm ấy chúng ta đã từng ghét nhau đến thế, vậy tại sao còn phải kết hôn với ta? Hay là Vương gia bỗng dưng thay đổi khẩu vị, thích kiểu xấu xí tầm thường như ta?”
Những hồi ức cũ lại hiện lên rõ nét. Khi ấy, Tạ Cảnh cực kỳ chán ghét ta, còn ta thì nghĩ có lẽ hắn quen sống tự do nên sợ bị ta ràng buộc. Biết hắn bị ho, ta cố gắng học làm hiền thê, nấu thuốc bổ, mỗi đêm đều mang đến thư phòng cho hắn. Ta tin rằng sự chân thành của mình rồi sẽ khiến hắn cảm động. Đến sinh nhật ta, Tạ Cảnh còn cho người may riêng một bộ váy trắng, dặn dò cẩn thận từng chi tiết. Ta vui mừng khôn xiết, tưởng rằng hắn đã đổi ý.
Ta gọi người đến trang điểm, còn nhắc phải thoa phấn thật kỹ để che vết sẹo trên mặt. Đầy hy vọng, ta bước đến mở cửa thì bắt gặp hắn đang cùng một nhóm mỹ nhân cười nói vui vẻ.
“Nhìn kìa, nàng ấy thật sự tin rồi, còn không biết xấu hổ mà soi gương nữa.”
“Đúng là không biết trời cao đất dày.”
Tần La Xu, người thích nhất màu trắng – màu tôn lên vẻ thanh nhã của nàng ta – cũng đang ở đó. Ta và nàng ta mặc cùng một kiểu váy, nhưng nàng như tiên nữ, còn ta chẳng khác gì một a hoàn quê mùa. Tần La Xu liếc ta khinh miệt. Ta ngượng ngùng kéo tay áo, cúi đầu lặng lẽ.
Tạ Cảnh lúc ấy say khướt, dựa vào đám mỹ nhân, liếc ta một cái:
“Xu Nhi muốn xem người khác bắt chước nàng mà.”
Khoảnh khắc đó, ta hiểu ra, dù ta có cố gắng thế nào, Tạ Cảnh cũng sẽ không bao giờ yêu ta.
Sáng hôm sau, ta rời khỏi phủ Cảnh Vương, quay lại Đào Hoa lâu tiếp tục bán rượu. Tạ Cảnh mặt lạnh kéo ta về, nhưng trước mặt mọi người lại cười nói:
“Nương tử đùa đủ rồi, cho vi phu một lối xuống đi.”
Ai nấy đều cười, bảo Cảnh Vương gia nổi tiếng dịu dàng, lấy vợ rồi cũng thành sợ vợ như ai.
Nhưng khi lên xe, vừa buông rèm xuống, Tạ Cảnh đã lạnh lùng tát ta một cái, bàn tay siết chặt lấy cổ ta, giọng nói sắc lạnh:
“Cưới ngươi là ý của hoàng huynh ta, không phải của ta.”
“Nếu ngươi khiến ta mất mặt, để ta mang tiếng là nghiêm khắc với chính thê, làm ảnh hưởng đến thanh danh của hoàng huynh, thì tốt nhất nên lo cho mạng sống của ca ca ngươi đi.”
Tiết trời mỗi lúc một lạnh, cũng như trái tim ta đối với Tạ Cảnh ngày càng nguội giá. Ta tự tay may cho ca ca vài bộ áo ấm để chuẩn bị ra trận, nghe nói Bắc Cảnh khắc nghiệt nên ta càng cẩn thận từng đường kim mũi chỉ.
“Ca ca, nếu chiến sự yên ổn thì nhớ về nhà, muội luôn mong ngóng ca ca trở về.”
Nghĩ đến đây, nước mắt ta bất giác rơi, làm nhòe cả nét mực trên thư. Càng lau, nước mắt càng tuôn, đến mức lá thư cũng trở nên nhòe nhoẹt, chẳng còn đọc được nữa.
“Vương gia đối với ta rất tốt, ca ca đừng bận lòng, chỉ mong ca ca bình an.”
Ta chưa từng nhận được hồi âm nào từ ca ca. Sau khi ca ca hy sinh, ta mới biết những gì ta gửi đều không tới tay người, còn thư ta viết cũng bị Tạ Cảnh giữ lại. Khi ta chất vấn, hắn chỉ lạnh lùng đáp:
“Nhìn tình cảm huynh muội các ngươi thật đáng ghê tởm.”
Có lần, ta quỳ giữa trời tuyết, cầu xin hắn cho ca ca một nấm mộ gió, nhưng hắn thẳng thừng từ chối. Đến cuối cùng, giữa ta và Tạ Cảnh cũng chẳng còn gì ràng buộc. Ta thu mình trong phòng, không ăn không uống, rồi lâm bệnh nặng. Hắn lại thản nhiên nói không cần chữa trị, vì chỉ cần ta chết đi là hắn có thể lấy vợ mới.
Nhớ lại ba năm chịu đựng ấm ức, ta nghẹn ngào hỏi hắn:
“Nếu đã không vui vẻ, vậy vì sao Vương gia vẫn chọn ta?”
“Bảy năm trước, vào đêm đông chí, nàng ở đâu? Vết sẹo trên mặt nàng là do cứu ai?”
Hôm ấy, ta từng cứu một thiếu niên và bị thích khách làm bị thương. Người đó là Tạ Cảnh sao?
“Chính là ta. Ban đầu, ta cứ nghĩ ân nhân là Tần La Xu, mãi đến khi sống lại mới nhận ra sự thật.”
“Người cứu ta chính là nàng.”
Nhưng điều đó có ý nghĩa gì? Chẳng lẽ chỉ vì một chữ “duyên” mà ta phải bỏ qua mọi tổn thương, nước mắt, rồi lại làm lành với hắn? Thật nực cười.
Ta rụt tay lại, nhưng ánh mắt hắn lại dừng trên chiếc vòng mã não nơi cổ tay ta.
“Nếu nàng không có tình cảm, sao còn giữ chiếc vòng ta tặng?”
“Hãy bắt đầu lại, lần này ta sẽ không để nàng phải chờ đợi, sính lễ cũng là tất cả những gì ta có.”
“Tạ Cảnh, ta không muốn tiếp tục vướng bận chuyện sống lại hay ân oán gì nữa. Ngài là Vương gia của Đại Chu, ngoài kia không chỉ có binh sĩ mà còn là con dân của Tạ gia các ngài.”
“Dù ngài nói kết cục đã định hay không, ta vẫn sẽ cố gắng hết sức.”
“Chưởng quầy, ông xem bộ vòng tay này bán được bao nhiêu?”
Khi rời đi, ta chỉ tiện tay mang theo bộ vòng tay ấy, định nếu cần thì tách từng hạt bán lấy lộ phí. Đại quân bị vây giữa trận chiến Nguyệt Minh suốt nửa tháng, lương thực cạn kiệt, chỉ còn đủ cho mười vạn người ăn ba ngày, chưa kể cỏ khô cho ngựa cũng chẳng còn.
Muốn chuẩn bị lương thực cho nửa tháng, mà vận chuyển ngàn dặm thì hao hụt không ít. Ta tính toán, dù bán hết tất cả nữ trang cũng chẳng gom nổi từng ấy lương thực. Nghĩ đến số sính lễ Tạ Cảnh từng để lại, có lẽ vẫn còn nguyên ở nhà, nhưng nếu động vào thì sau này biết lấy gì trả lại.
Không còn cách nào khác, ta viết thư về nhà, dặn quản gia đổi sính lễ và của hồi môn ca ca để lại thành tiền mặt. Ta tiếp tục tìm đến các thương nhân nấu rượu, làm tương ở Nhạn Thành, Bắc Cảnh để thuê kho bãi và những hầm rượu còn trống. Vốn không rành chuyện buôn bán, ta cũng chẳng rõ liệu mấy chủ tiệm lương thực có lợi dụng thời cơ để nâng giá với ta hay không.
“Thẩm tiểu tướng quân, cho ta mượn một người.”
Nhờ vậy, ta mượn được Triệu Tam. Cậu ấy như một cuốn sổ sống, từng theo chủ đi khắp Bắc Cảnh làm ăn nên nắm rõ giá cả từng món hàng. Triệu Tam không giống những người thô lỗ thích gây sự, lại rất sạch sẽ, giúp ta dọn dẹp nhà bếp, thư phòng gọn gàng, còn khéo léo cắm mấy bông hoa dại hái dưới chân núi để trang trí cho phòng thêm tươi sáng.
“Nếu không có ngươi, chắc ta vừa bị lừa vừa phải giúp người ta đếm tiền mất rồi!”
Nghe ta khen, Triệu Tam chỉ biết cười ngượng nghịu.
Bên cạnh việc tăng thu, tiết kiệm cũng vô cùng quan trọng. Hiện tại chiến sự chưa bùng phát, lương thảo vẫn dồi dào, nếu biết tính toán từ bây giờ thì sau này mới đủ xoay xở. Với lượng lương thực lớn như vậy, ta còn phải tính đến chuyện bảo quản và vận chuyển. Cơm rang, bánh nướng, giấm muối đều được tẩm vào vải thô để giữ được lâu, tiện cho quân lính di chuyển. Ngoài ra, Triệu Tam còn chỉ ta cách làm thịt khô theo kiểu người Ô Tạng.
“Ta cứ nghĩ ngươi chỉ giỏi tính toán thôi đấy!”
“Là mẫu thân dạy ta. Bà từng là nô lệ cho quý tộc Ô Tạng, tay nghề nấu ăn cũng chẳng kém gì Huỳnh cô nương đâu.”
Nói xong, Triệu Tam chợt nhận ra lỡ lời, vội vàng xin lỗi: “Ta không có ý nói Huỳnh cô nương giống nô lệ Ô Tạng…”
Ta chợt nhớ người ta từng bàn tán, mẹ Triệu Tam là người Ô Tạng, cha là người Hán, nên cậu ấy luôn bị xa lánh.
“Nghe nói phụ nữ Ô Tạng vừa xinh đẹp lại múa hát giỏi, nếu ta được như bá mẫu thì tốt biết mấy.”
“Nếu một ngày Đại Chu và Ô Tạng không còn chiến tranh, Triệu Tam nhớ dẫn ta gặp bá mẫu nhé. Ta mê món bánh sữa Ô Tạng lắm mà làm mãi không ra hương vị ấy.”
Triệu Tam ngỡ ngàng, mắt đỏ hoe, chỉ biết gật đầu lia lịa.
Những ngày sau đó, nhà bếp được cấp thêm mấy khối đá đánh lửa. Ta còn mượn được vài khối đá của mấy chủ tiệm gạo và mấy con lừa đen. Triệu Tam mấy lần dò hỏi ta có phải sắp có chiến sự không. Mỗi lần ai đó hỏi, Thẩm Kinh Sương lại đáp:
“Tích trữ lương thảo để chuẩn bị đánh phá sào huyệt Ô Tạng, phong Vương gia Ô Tạng làm thần tử Đại Chu!”
“Thẩm tiểu tướng quân! Khiêm tốn thôi! Đừng xem thường người Ô Tạng, họ không dễ đối phó đâu!”
Ta ngẩng đầu khỏi đống gạo, trừng mắt nhìn hắn.
“Được rồi, được rồi…” Thẩm Kinh Sương vội vàng gật đầu.
Còn Tạ Cảnh, ta cũng chẳng rõ hắn lấy thân phận gì để ở lại trong quân, người ngoài chỉ biết hắn là một quân sư mới tới, chẳng ai biết thân phận thực sự của hắn.
Một trưa nọ, ta mệt quá ngủ gục trên đống sổ sách. Trong cơn mê, ta mơ thấy Thẩm Kinh Sương. Vị tiểu tướng quân hào hoa năm nào giờ đây bị còng tay, lê bước nặng nề về phía pháp trường. Dù bị người đời mắng nhiếc, hắn vẫn ngẩng đầu nhìn về phương Bắc, không chịu quỳ gối trước cái chết. Đao phủ đá vào đầu gối hắn mấy lần mà hắn vẫn kiên cường đứng thẳng, miệng còn cố nói điều gì đó nhưng tiếng la ó quá lớn, ta không nghe rõ. Khi đao phủ giơ cao lưỡi đao, mắt ta đau nhói.
“--Thẩm Kinh Sương!”
Ta choàng tỉnh, hoảng hốt nhìn quanh. Gương mặt Tạ Cảnh lạnh tanh ngồi bên cạnh, Thẩm Kinh Sương đỏ mặt tránh nhìn ta, còn Triệu Tam thì vùi đầu vào sổ sách giả vờ không nghe thấy gì.
Phá vỡ bầu không khí nặng nề, Thẩm Kinh Sương vội vàng nhét vào tay ta một túi nhỏ, như thể sợ bỏng:
“Mèo… mèo con… mèo mà cô nương từng muốn đây.”
“Thẩm Kinh Sương bị làm sao vậy?”
Triệu Tam tốt bụng nhắc nhỏ: “Huỳnh cô nương, cô mới chợp mắt chưa đến nửa canh giờ mà đã gọi tên Thẩm tiểu tướng quân tới chín lần rồi đấy.”
“Sau đó mặt Thẩm tiểu tướng quân cứ đỏ bừng lên.”
Giờ mà giả vờ ngủ chắc cũng không kịp nữa…
Tạ Cảnh nhìn ta đang vùi đầu vào đống sổ sách, ánh mắt phức tạp:
“Những việc nàng làm, cuối cùng chẳng phải đều sẽ thành công cốc sao?”
Ta bận ôm lũ mèo con mà Thẩm Kinh Sương vừa đưa tới, chẳng buồn tranh luận:
“Dù có đổ đi, cũng phải là một cú thật lớn, thật đẹp mới xứng đáng.”
“Nàng vẫn chẳng khác gì ngày trước.”
Nhắc đến chuyện cũ, Tạ Cảnh bất giác bật cười:
“Hồi đó ta cứ nghĩ mình chắc chắn sẽ chết, nhưng tiểu cô nương ấy lại bảo đại phu, dù thuốc đắt đến đâu cũng phải thử.”
“Những lời viển vông như thế, sao không đưa ta ít tiền cho nhanh?”
Ta nhớ lại chuyện năm xưa từng cứu hắn.
Nghe ta nhắc lại, sắc mặt Tạ Cảnh sáng lên:
“Hồi ấy tiêu mất ba lạng bạc, giờ tính cả lãi, bảy năm rồi thành năm mươi lạng, trả đi.”
Nụ cười trên môi Tạ Cảnh lập tức cứng lại.
Đang nói chuyện, ta vội nhặt một con mèo tam thể đang chạy loạn dưới đất. Ngẩng lên, lại thấy trên đầu Thẩm Kinh Sương còn cuộn một chú mèo cam. Hắn ngồi xổm, ngoan ngoãn để ta bế mèo xuống. Ta vuốt lại tóc cho hắn, rồi liếc sang Tạ Cảnh đang đen mặt ngồi bên.
“Ngài về sớm đi.” Ta thở dài.
“Nàng không muốn gặp ta sao?”
“Ngài ở đây chỉ tổ tốn cơm tốn gạo thôi.”
Trời ngày càng lạnh, Bắc Cảnh vào tháng mười đã có tuyết, sang tháng mười một thì rét đến mức chẳng ai muốn rời giường. Hai ngày trước đông chí, ngày nào ta cũng dậy sớm chuẩn bị sủi cảo cho ngày lễ. Đông về, việc vận chuyển càng khó khăn, nên quân doanh mở cửa lâu hơn để tiện trao đổi hàng hóa cho quân dân. Đông chí là dịp lễ lớn ở Bắc Cảnh.
Triệu Tam vốn không quen uống rượu mạnh của vùng này, cứ khen rượu Huệ Tuyền quê mình mới là đặc sản tiến cống.
“Đợi chiến sự qua đi, nhất định phải đến nhà Triệu Tam xin ít rượu mới được!”
Mọi người khoác vai Triệu Tam, không còn chút xa cách nào như trước.
Giữa lúc ai nấy đều vui vẻ, ta lại lặng lẽ ngồi một mình, nỗi buồn dâng lên không dứt.
“Miêu đầu cô nương, cô không ăn gì sao?” Đại Tráng hỏi thăm. Vì lũ mèo bắt chuột mà Thẩm Kinh Sương tặng, binh lính đặt cho ta biệt danh “miêu đầu cô nương”. Ta chỉ lắc đầu, càng gần ngày ấy lòng càng nặng trĩu.
“Nào, uống rượu đi! Uống vào cho khuây khỏa!”
Họ cười đùa đưa ta bát rượu mạnh, ta ngửa cổ uống cạn, rồi dựa vào cửa ngắm ca ca. Ca ca tính tình hiền hậu, thưởng phạt phân minh nên binh sĩ đều nể phục.
“Này, Huỳnh cô nương hình như thích ca ca nhà ta lắm, say rồi cứ nhìn mãi không rời mắt.”
Nghe vậy, ca ca và Tạ Cảnh đều bị sặc, ho liên tục.
“Ca ca nhà ta còn chưa cưới vợ, hay làm mối cho hai người nhé? Chỉ tiếc chẳng ai biết Huỳnh cô nương trông thế nào.”
“Đừng trêu cô ấy nữa.” Ca ca xua tay, cười áy náy với ta: “Huỳnh cô nương đừng để tâm.”
Đúng lúc đó, Thẩm Kinh Sương xuất hiện, vén rèm cửa, trên lông mi còn đọng sương tuyết, trông như vừa chạy vội tới:
“Tiểu Huỳnh, đến đây, ta cho cô xem cái này.”
Hắn kéo ta đi, thần thái bí ẩn.
“Các huynh đệ nhìn nhầm rồi, đôi kia mới thật là một cặp!”
“Người ta còn tặng sáo nhạn cho Huỳnh cô nương nữa, chắc sắp có rượu mừng rồi!”
Tiếng trêu chọc phía sau vang lên không dứt.
Tử Sáp phi nhanh trên tuyết, vó ngựa tung lên những bông tuyết lấp lánh như sao. Tiếng gió rít bên tai.
“Đến rồi!”
Ánh trăng rọi xuống, khiến tuyết trắng trải dài trên đồng bằng sáng lấp lánh như những đốm đom đóm trong sương đêm.
Bọn ta ngồi bệt trên sườn núi, từ đây ngước lên, mặt trăng dường như gần đến mức chỉ cần với tay là có thể chạm tới. Thẩm Kinh Sương tỏ ra vô cùng tự hào:
“Chỗ ngắm trăng này, ngoài ta ra chẳng ai biết đâu.”
Hừ, ta biết nơi này từ lâu rồi đấy. Khi còn nhỏ, ta và ca ca từng sống ở Bắc Cảnh, Thẩm Kinh Sương hay rủ ca ca đi thi đấu võ nghệ. Ta thì nhất quyết bám lấy ca ca, không chịu nhường cho Thẩm Kinh Sương, còn cố tình đẩy hắn ngã một cú đau điếng. Hắn rụng mất một cái răng, khóc lóc chạy đến đây. Khi phụ thân hắn tìm thấy, Thẩm Kinh Sương đang nức nở kể lể rằng mất răng thì chẳng ai chịu lấy mình.
“Cùng lắm thì lớn lên ta gả cho ngươi, khóc cái gì chứ!” Ta lúc ấy còn khinh thường thói hay khóc của hắn. Đó chỉ là lời đùa trẻ con, chẳng ai để tâm. Giờ mọi thứ đã thay đổi, ta không còn trở lại Bắc Cảnh, hắn cũng chưa từng đặt chân đến kinh thành. Tương lai mỗi người một ngả, sinh ly tử biệt, chỉ còn lại ký ức.
“Này… Tiểu Huỳnh, cô thích kiểu nam nhân nào?”
Thẩm Kinh Sương giả vờ hỏi vu vơ, nhưng lại quay mặt đi để che giấu vẻ ngượng ngùng. Ta thấy vành tai hắn đỏ ửng, chắc do lạnh hoặc vì xấu hổ.
“Hai mắt, một mũi, một miệng.”
Ta đáp bâng quơ, hắn cũng lấy que vẽ trên tuyết vài nét, nhếch môi:
“Ai mà chẳng như thế, có gì đặc biệt đâu?”
“Thế còn ngài, thích kiểu cô nương nào?”
Hắn nghiêm túc vẽ lên tuyết, cũng là hai mắt, một mũi, một miệng.
“Ngài cũng chỉ nói cho có lệ thôi mà.”
Chúng ta cùng im lặng nhìn hai hình vẽ nguệch ngoạc trên nền tuyết.
“Ta mua được cái này, tặng cô.”
Đó là một chuỗi trang sức thủ công tinh xảo, kiểu dáng mà các thiếu nữ Ô Tạng thường đeo ngày xuất giá. Những sợi chỉ vàng đan xen giữa ngọc lục bảo lấp lánh, mỗi khi lay động lại tỏa ra ánh sáng như sao trời.
Thẩm Kinh Sương gãi đầu:
“Cái này… đeo mát hơn cái kia nhiều.”
Hắn đâu biết ta đeo mạng che mặt đâu phải vì sở thích. Thấy ta im lặng, hắn có phần lúng túng, lắp bắp:
“Nếu cô không thích thì coi như ta chưa tặng, để ta… ta đổi món khác cho cô.”
Không hiểu sao, ta lại nhớ tới ánh mắt ghê tởm của Tạ Cảnh khi nhìn vết sẹo trên mặt ta, nhớ tới chiếc váy trắng mà hắn bắt ta mặc ngày ấy. Món trang sức này đẹp đến mê người, cô gái mười bảy tuổi nào mà không thích làm đẹp. Ta đoán Thẩm Kinh Sương đã nhận ra ta là Bùi Nguyệt, nhưng ngày chia tay, ta mới chín tuổi và chưa có vết sẹo này. Có lẽ nếu biết, hắn cũng sẽ như Tạ Cảnh, lạnh nhạt hoặc xấu hổ vì những lời từng nói.
So với việc có rồi mất, thà rằng chưa từng có còn hơn. Ta cúi đầu, tháo mạng che mặt.
Thẩm Kinh Sương vội vàng che mắt, quay đi. Ta nhẹ nhàng kéo vạt áo hắn. Hắn ngạc nhiên quay lại, rồi bất ngờ nở nụ cười rạng rỡ:
“Ta biết nàng là Bùi Nguyệt mà!”
Ta sợ hắn chưa nhìn rõ vết sẹo, liền chỉ cho hắn xem. Hắn sững người, sau đó cúi đầu nhìn bức vẽ trên tuyết, rồi dùng tay vẽ thêm một nét ngang trên khuôn mặt ấy – đúng vị trí vết sẹo của ta. Lần này, hắn nhìn ta rất nghiêm túc, không còn chút đùa cợt nào:
“Bùi Nguyệt, đây chính là kiểu cô nương mà ta thích.”
Ta bối rối, không dám đối diện ánh mắt ấy. May thay, đúng lúc đó Tạ Cảnh xuất hiện, ghìm cương ngựa, mặt lạnh như tiền nhìn Thẩm Kinh Sương, nhưng lại mỉm cười với ta, chìa tay ra:
“Nguyệt Nhi, về với ta đi.”
Ta theo phản xạ lùi lại một bước. Thẩm Kinh Sương tiến lên che chắn trước mặt ta:
“Nàng căn bản không muốn đi cùng ngươi!”
Nhìn cảnh ấy, Tạ Cảnh liếc xuống bức vẽ trên tuyết, như bừng tỉnh điều gì đó, liền cười đắc ý:
“Thẩm tiểu tướng quân chắc không biết, năm xưa nàng ta cứ bám lấy ta, năn nỉ ta nhìn nàng một cái, còn khóc lóc tranh giành với các thiếp thất khác nữa cơ.”
"Nàng ta vốn đã chẳng còn giữ gìn, còn học cách chiều chuộng ta trên giường."
"Nàng ấy tự hạ thấp bản thân, khép nép, thậm chí chẳng màng đến thể diện chỉ để làm ta hài lòng."
"Những chuyện như vậy, ngươi không tò mò sao?"
Ta chết lặng, quay sang nhìn Thẩm Kinh Sương. Trong mắt hắn ánh lên vẻ bàng hoàng, không thốt nên lời:
"Cảnh Vương, ngài có bao giờ cảm thấy việc ai đó yêu ngài lại là điều đáng xấu hổ không?"
Lần đầu tiên nàng ấy nói muốn lấy người là ta, lần đầu ngắm trăng ở Bắc Cảnh cũng là cùng ta, lần đầu vẽ tranh trên tuyết cũng là ta.
"Cuộc đời rộng lớn biết bao, có vô số lần đầu tiên đáng nhớ, chẳng lẽ ngoài chuyện trên giường ra, Cảnh Vương không còn gì để tự hào sao?"
Tạ Cảnh sững sờ không đáp.
"Mong Cảnh Vương hiểu rằng, tình yêu là từ trái tim, không phải thứ để mặc cả hay đòi hỏi ở người khác."
"Bùi Nguyệt, đi thôi, sắp có bão tuyết rồi."
Thẩm Kinh Sương mỉm cười, thổi một tiếng sáo, Tử Sáp lập tức lao tới. Hắn chìa tay đỡ ta lên lưng ngựa một cách chắc chắn.
Tạ Cảnh đứng lặng giữa màn tuyết trắng, vai áo phủ đầy bông tuyết mà cũng chẳng buồn phủi đi. Không biết trong đầu hắn đang nghĩ gì, mà ta cũng chẳng còn muốn bận tâm nữa.
Tử Sáp lao nhanh qua Tạ Cảnh, băng mình trong gió tuyết.
Tuyết rơi dày đặc, mỗi lần ngoái lại chỉ khiến tuyết bay vào mắt, vừa lạnh buốt vừa nhói đau.
Vậy nên, đừng ngoảnh đầu lại.
Đừng bao giờ nhìn lại phía sau.