Ngày chiến sự cận kề từng bước. Đầu tiên là tin lương đạo bị phá, may mắn thay nhờ chuẩn bị kỹ càng nên quân tâm không bị xáo động. Lương thực không những không giảm mà còn phong phú hơn thường ngày, thậm chí cả canh thịt cũng có. Ta cảm nhận rõ ánh mắt khâm phục của binh lính dành cho mình:
“Miêu đầu cô nương đúng là liệu sự như thần!”
“Lúc trước ta còn tưởng Tiểu Huỳnh cô nương muốn thành thương nhân gian xảo, thật đáng trách!”
Sau đó, Thánh Thượng phái người mang mật chỉ nghị hòa với Ô Tạng, cùng đoàn sứ thần đến Bắc Cảnh. Ta nhớ rất rõ, lần hòa đàm này thất bại, chỉ ngay hôm sau chiến tranh bùng nổ. Mọi chuyện cứ thế diễn ra như đã được sắp đặt, khiến lòng ta cũng nhẹ nhõm phần nào.
Đêm ấy, Tạ Cảnh lại đến, muốn đưa ta đi.
“Tạ Cảnh, chúng ta đã là vợ chồng một kiếp, cũng nhìn nhau đến phát chán rồi, chẳng lẽ vẫn chưa đủ sao? Đời trước ta biết ơn ngài từng giúp ta, cũng như ngài biết ơn ta đã cứu ngài, coi như giữa chúng ta không còn nợ nần gì nữa.”
“Chẳng lẽ đây không phải là duyên phận? Giờ ta đã biết vết sẹo trên mặt nàng là vì cứu ta, sao ta có thể chê bai được?”
“Chỉ là lòng biết ơn thôi, thời gian trôi qua, vết sẹo ấy rồi cũng không còn khiến ngài đau lòng, mà chỉ khiến ngài nghĩ ta lấy ơn nghĩa để trói buộc ngài.”
“Nàng vẫn còn trách ba năm trước phải không…”
Hắn vẫn chẳng hiểu, không hiểu rằng khi một người được sống lại, họ có thể không còn bận lòng về tình yêu nữa.
“Ta đã chuẩn bị đủ lương thảo, cũng đã nhắc Thẩm Kinh Sương phải cực kỳ cẩn trọng, lần này nhất định chúng ta sẽ chiến thắng…”
Nhưng Tạ Cảnh chỉ nhìn ta với ánh mắt thương hại:
“Hắn nhất định sẽ chết, mọi thứ nàng làm đều vô ích. Nếu đêm nay không đi cùng ta, Ô Tạng sẽ tàn sát thành trì, nàng cũng sẽ chết ở đây.”
“Nếu vậy thì ta cam lòng ở lại. Ngài không thay đổi được số mệnh của Tần La Xu, không có nghĩa ta cũng bó tay.”
Ta gạt tay hắn ra:
“Tạ Cảnh, ngài làm không được, không có nghĩa là ta không làm được.”
“Nhưng nếu trận chiến Nguyệt Minh này vốn không phải do nội gián, cũng chẳng phải tướng lĩnh bất tài, mà là Ô Tạng muốn lấy mạng phụ tử Thẩm gia? Nếu Thánh Thượng chủ động dâng đầu họ để đổi lấy mười năm bình yên cho Đại Chu thì sao?”
Ta sững người, không tin nổi vào tai mình.
“Thứ mà đoàn sứ thần mang đi vốn không phải thánh chỉ hòa đàm, mà là bản đồ địa trận Bắc Cảnh. Thánh Thượng sẵn sàng lấy đầu phụ tử Thẩm gia để đổi lấy cam kết không xâm phạm Đại Chu trong mười năm của Ô Tạng!”
“Bùi Nguyệt, dù nàng có tích trữ bao nhiêu lương thảo, có thể chống vây hãm của Ô Tạng, nhưng liệu nàng có chống lại được tội danh từ trên trời rơi xuống không?”
“Hôm nay cắt năm thành, ngày mai mười thành, chẳng lẽ Thánh Thượng không hiểu? Không có Thẩm tướng quân, Đại Chu như rắn mất đầu, sớm muộn cũng bị chia năm xẻ bảy. Thánh Thượng thực sự không màng đến sinh mạng dân chúng Bắc Cảnh, không quan tâm đến những người lính này sao?”
“Chỉ là một Bắc Cảnh thôi mà, so với ngai vàng thì cái nào nặng hơn?”
Tạ Cảnh đưa lệnh bài cho ta:
“Thẩm Kinh Sương chắc cũng đã đoán ra, nếu không đã chẳng để Tử Sáp lại cho nàng. Hắn nhất định sẽ chết, chỉ là chết trên chiến trường hay chết ở pháp trường mà thôi. Còn chúng ta trở về kinh, mọi chuyện sẽ như chưa từng xảy ra, chúng ta vẫn có thể…”
Giữa lúc tranh luận, ta bỗng phát hiện một bóng người lẩn khuất ngoài cửa, không rõ đã nghe được bao nhiêu. Ta vội mở cửa lao ra, nhưng hắn đã biến mất. Hắn là ai? Đã nghe lén được những gì?
Ta vội khoác áo choàng, gọi Tử Sáp, lao ra ngoài trong đêm tuyết.
“Nàng định đi đâu?”
“Ta phải báo cho Thẩm Kinh Sương, ngăn chặn đoàn sứ thần và đạo thánh chỉ kia lại.”
Tạ Cảnh bất ngờ siết chặt cổ tay ta:
“Nàng mà dám cản thánh chỉ, chính là tội mưu phản!”
Ta ngước mắt nhìn thẳng vào hắn, từng lời dứt khoát:
“Vậy thì để một mình ta gánh tội mưu phản! Ta lấy mạng mình đổi lấy sự sống cho tướng sĩ và dân chúng.”
Khi chạy ra chuồng ngựa, ta mới phát hiện cả sáo nhạn và Tử Sáp đều biến mất. Đúng lúc ấy, Thẩm Kinh Sương chạy tới, báo rằng Triệu Tam cùng đạo thánh chỉ cũng không còn. Vệ binh gác đêm nói đã thấy Tử Sáp và Triệu Tam nên đã cho họ đi. Triệu Tam định làm gì vậy?
“Bùi Nguyệt, đây chính là cái giá phải trả khi nàng muốn thay đổi số phận. Không có đoàn sứ thần, lại xuất hiện một Triệu Tam, ai đưa thánh chỉ đi thì kết cục cũng vậy thôi. Chắc chắn hắn nghe lén chuyện chúng ta, mà hai bên giao chiến cũng không giết sứ giả, làm nội gián như thế hắn vừa giữ được mạng, lại có thể lập công, thật khôn ngoan.”
“Tỉnh lại đi, Bùi Nguyệt. Được trời cho cơ hội sống lại, nàng nên học cách làm người thông minh như hắn.”
“Đi cùng ta.”
Tạ Cảnh chìa tay ra, ta đứng chết lặng, đầu óc quay cuồng, nước mắt không kìm được mà rơi xuống. Chẳng lẽ mọi nỗ lực của ta đều vô ích, đúng như lời Tạ Cảnh? Thiên tai, phản bội… tất cả lại lặp lại như kiếp trước, khiến những gì ta cố gắng bỗng trở nên nực cười.
“Nguyệt Nhi, sao lại khóc?”
Ta òa khóc, kể hết mọi chuyện kiếp trước, vừa nói vừa nức nở đến nghẹn thở. Bất ngờ, ta được kéo vào một vòng tay ấm áp. Ngẩng đầu lên, ta thấy ca ca đang nhẹ nhàng xoa đầu mình:
“Đừng khóc, ca ca ở đây rồi.”
Chỉ cần ca ca lên tiếng, nước mắt ta lại tuôn trào dữ dội hơn.
“Ca ca… ca ca sẽ chết, nếu… nếu mọi người chạy thoát được…”
Ca ca mỉm cười, ánh mắt đầy thấu hiểu:
“Ta đoán không sai mà, quả nhiên là Nguyệt Nhi… Chiến sĩ không chết ngoài chiến trường, chẳng lẽ lại sống nhục nhã cả đời sao?”
“Nguyệt Nhi bỏ trốn, làm ca ca mất mặt.”
Ca ca cúi xuống, dịu dàng lau nước mắt cho ta:
“Không muốn lấy chồng thì thôi, Nguyệt Nhi không cần gả nữa.”
“Hóa ra suốt một năm qua, Nguyệt Nhi đã tích trữ nhiều lương thảo cho mọi người đến vậy.”
“Nguyệt Nhi giỏi lắm.”
Nhìn gương mặt ca ca, ta nhận ra mình không sợ chết, chỉ sợ phải rời xa người thân yêu nhất.
“Thất bại là do chủ tướng bất tài? Ta sao? Bất tài à?”
Thẩm Kinh Sương tựa vào ngọn giáo, nhướng mày:
“Bản tướng quân muốn xem thử cái mạng này…”
“Thiếu tướng quân, ngài đâu phải chủ tướng.”
Ca ca kịp thời phá tan sự tự mãn của Thẩm Kinh Sương. Ta khẽ bật cười.
Khi thấy ta đã bình tĩnh lại, ca ca và Thẩm Kinh Sương cùng lúc quay sang nhìn Tạ Cảnh. Một ngọn giáo và một thanh kiếm đồng loạt chĩa vào cổ Tạ Cảnh, hai người mặt lạnh như tiền, đồng thanh quát:
“Cút!”
Thời gian không còn nhiều. Ô Tạng đã có bản đồ địa trận Bắc Cảnh, gần như nắm chắc phần thắng.
“Đêm nay phải ra tay trước, tấn công phủ đầu mới có cơ hội.”
Gió rít từng cơn, Thẩm Kinh Sương chia năm đội kỵ binh nhẹ, chuẩn bị đánh úp để đối phương không kịp trở tay. Hắn sắp lên đường rồi. So với thường ngày, hắn như trưởng thành hơn chỉ trong một đêm, không còn vẻ đùa cợt nữa.
Ta đứng dưới vọng gác tiễn hắn. Hắn ngập ngừng, cuối cùng cũng cúi người xuống khỏi lưng ngựa, nhìn ta thật lâu:
“Ta sợ mình không quay về được, sợ nàng sẽ buồn nên định nói dối, bảo rằng hôm đó ta lừa nàng, ta không thích nàng, một chút cũng không thích.”
“Nhưng nghĩ mãi, ta không thể nói dối trái tim mình.”
“Bùi Nguyệt, ta thực sự rất thích nàng.”
Ta ngẩng đầu, mượn ánh lửa nhìn hắn. Đây là lần đầu tiên ta nhìn hắn chăm chú đến vậy. Gương mặt Thẩm Kinh Sương mang nét tuấn tú hiếm có, lông mày kiếm sắc, ánh mắt sáng rực, mái tóc buộc cao toát lên vẻ khí khái của tuổi trẻ. Gió tuyết Bắc Cảnh khiến ánh nhìn của hắn càng thêm sắc sảo, nhưng hàng mi vẫn đen dài, mỗi khi hắn cúi đầu lại như cánh bướm đen mảnh mai đậu trên gương mặt, để lại bóng mờ dịu dàng trên làn da ấy.
Còn ta thì sao? Ta là gì trong lòng hắn? Là yêu thương, là thương hại, hay chỉ là chút cảm kích?
Bận rộn suốt thời gian qua, ta chưa từng có dịp lắng nghe trái tim mình.
“Được rồi, đừng ép bản thân. Ta có thể chờ đến khi nàng hiểu rõ lòng mình.”
“Đừng nhận lời chỉ vì muốn an ủi ta, động viên ta, hay vì lúc này không khí quá tốt.”
“Ta phải lên đường rồi. Nếu ta may mắn trở về, nếu nàng cũng có tình cảm với ta, hãy mặc bộ váy đẹp nhất, đợi ta dưới cổng thành.”
“Mà thật ra, trong mắt ta, nàng mặc gì cũng đều đẹp.”
Thẩm Kinh Sương rời đi. Ta lơ mơ cùng quân y chuẩn bị thuốc men, nước sôi. Người khác nói gì ta cũng chẳng nghe vào đầu.
“Huỳnh cô nương? Cô bị sốt à?” Quân y sờ trán ta mấy lần, ngạc nhiên:
“…Lạ thật, không ho không cảm, sao lại sốt được nhỉ?”
Không ai biết, lúc này trái tim ta run rẩy theo từng đốm lửa, lần nào cũng là vì hắn.
Đến canh ba, phía ngoài đã le lói ánh sáng đầu tiên. Tin báo truyền về: Thẩm tiểu tướng quân đã đốt sạch lương thảo của địch, khiến quân đối phương mất hết nhuệ khí.
“Kẻ đào ngũ sẽ bị chém ngay; ai bị thương ở lưng cũng coi là đào binh, đều xử trảm; đao phải nhuốm máu, người phải mang thương tích, ai trái lệnh sẽ bị chém!”
Quân lệnh đã ban, đại quân xuất phát. Khói súng tan dần, trong lòng ta chỉ biết âm thầm cầu khấn thần linh phù hộ cho họ bình an trở về.
Ta từng nghĩ thời gian sẽ trôi thật chậm, nhưng khi bận rộn, ta lại không nhận ra từng ngày lặng lẽ qua đi. Hết băng bó vết thương cho binh sĩ, lại nấu thuốc, giặt giũ… Đến lúc ngẩng lên thì tin thắng trận đã vang khắp nơi.
Chỉ có tin báo chiến thắng, nhưng tuyệt nhiên không có tin gì về Thẩm Kinh Sương. Người ta kể, phó tướng đối phương dẫn quân truy kích, Thẩm Kinh Sương dường như quá tự tin, dẫn quân vòng ra phía sau rồi không ai còn thấy bóng dáng hắn nữa.
Tách trà trong tay ta rơi xuống, vỡ tan thành từng mảnh.
“Huỳnh cô nương?”
“Ta không sao.”
Ta ngồi xuống nhặt từng mảnh vỡ, mặc cho máu và nước mắt cùng rơi xuống mà chẳng hề hay biết.
Đèn hoa mừng thắng trận kéo dài từ Bắc Cảnh đến tận kinh thành. Mọi người chuẩn bị đốt pháo hoa, Thẩm tướng quân và ca ca không muốn làm mọi người lo lắng nên cố giữ nét mặt bình thản.
“Con gái, ra ngoài cùng mọi người xem pháo hoa đi.”
“Không sao đâu.” Ta lau mồ hôi trên trán, gượng cười: “Bận rộn thế này cũng tốt, còn nhiều người cần chăm sóc mà.”
Chỉ cần bận rộn, ta sẽ không còn thời gian để đau lòng.
“Nếu vào kinh phục mệnh, mong ngài hãy thật cẩn trọng…”
Một vị quân chủ sẵn sàng hy sinh tướng sĩ chỉ để giữ vững ngai vàng, thật không đáng để trung thành. Ta sợ lại có một Hồng Môn Yến nữa.
“Ta hiểu con lo lắng điều gì, cứ yên tâm.” Thẩm tướng quân an ủi: “Triệu Tam đã mang thánh chỉ sang Ô Tạng, nhưng khi quân ta giao chiến, đối phương dường như không biết gì về địa trận của chúng ta, thật kỳ lạ…”
Đúng lúc đó, tin vui vang lên ngoài cửa:
“Đại tướng quân! Thẩm tiểu tướng quân đã trở về!”
Ai? Thẩm Kinh Sương còn sống trở về sao?
Ta vội lao ra ngoài. Đúng lúc pháo hoa bùng sáng, soi rực cả nền tuyết trắng. Nhưng cuộc hội ngộ này chẳng lãng mạn chút nào: ta thì toàn thân bê bết máu, còn chưa kịp thay y phục, còn Thẩm Kinh Sương thì khoác áo binh lính Ô Tạng, khuôn mặt anh tuấn giờ đây trông vô cùng mệt mỏi, tiều tụy.
Khoảnh khắc ấy, ta chẳng còn nghe thấy tiếng gió rít, cũng không còn để ý đến pháo hoa rực rỡ trên trời. Thế giới như lắng lại, mọi thứ chỉ còn lại hình bóng người trước mặt, tiếng tim ta đập vang dội hơn cả tiếng tuyết rơi ngoài kia.
“Ta… ta bị lạc đường…”
“Triệu Tam đã dắt Tử Sáp đi… nên ta, ta mới lạc mất phương hướng…”
“Ta không phải không nghe lời nàng, cũng không phải chủ quan khinh địch…”
Tiếng nước mắt của ta nhỏ xuống, chưa để hắn nói hết, ta đã lao tới ôm chầm lấy hắn. Thẩm Kinh Sương sững sờ, rồi nhanh chóng siết chặt lấy ta:
“Ta đã về rồi, nàng cứ yên tâm.”
“Nhưng ta đâu có mặc váy đẹp…”
“Như vậy là đẹp lắm rồi.”
Không biết bao lâu sau, ta mới chợt nhận ra, vội vàng buông tay, mặt đỏ bừng. Mọi người xung quanh đều tinh ý quay đi, giả vờ chăm chú ngắm bầu trời tối đen:
“Pháo hoa năm nay thật đẹp.”
“Đúng vậy, trăng cũng sáng quá…”
Ở phía xa, ca ca và Thẩm tướng quân nhìn nhau mỉm cười, gật đầu hài lòng.
Ngoài Tử Sáp, Thẩm Kinh Sương còn mang về một bức thư do Triệu Tam để lại. Hắn kể, khi Tử Sáp tìm thấy mình, lá thư ấy được buộc vào cổ ngựa. Nét chữ vội vàng, xen lẫn vết máu, khó mà đọc hết, chỉ miễn cưỡng nhận ra vài dòng. Triệu Tam không kể đã đi đâu, cũng chẳng nói mục đích. Thư chỉ vỏn vẹn vài chữ:
【Triệu Tham bất mãn Tạ Diễm thân là thiên tử mà lại mù quáng, lại hận Thẩm tướng thưởng phạt không công nên đánh cắp thánh chỉ để trút giận riêng.】
Người ký tên là Triệu Tham.
Cách đó hai dòng nữa:
【Còn nợ ba lượng bạc của Chu chưởng quầy, ngoài ra không còn nợ ai nữa.】
【Nếu còn sống trở về, nhất định sẽ mời Huỳnh cô nương uống rượu Huệ Tuyền quê nhà.】
Nhưng người ký tên lại là Triệu Tam. Thì ra hắn tên thật là Triệu Tham, không phải Triệu Tam.
Ngày hôm đó, Triệu Tham đã nghe được cuộc tranh cãi giữa ta và Tạ Cảnh, biết được thánh chỉ kia chính là then chốt của tất cả. Hắn lẻn vào thư phòng lấy trộm sáo nhạn và thánh chỉ, cưỡi Tử Sáp lao thẳng tới doanh trại Ô Tạng. Một bức huyết thư đã xóa sạch tội danh trộm thánh chỉ cho tất cả mọi người.
Theo lời mật thám, Triệu Tham lấy cớ dâng thánh chỉ, giấu dao trong tay áo, bất ngờ đâm trọng thương phó tướng Ô Tạng. Khi bị bắt giữ, bản đồ địa trận Bắc Cảnh đã nhuốm đầy máu, không thể nhận ra gì nữa. Người Ô Tạng cho rằng hoàng đế Đại Chu cố tình dùng mưu, giả vờ hòa đàm để bán rẻ tướng sĩ, thực chất là cả triều đình đồng lòng, người Trung Nguyên vốn nổi tiếng xảo quyệt. Triệu Tham bị trói, chịu đủ cực hình tra khảo nhưng không hé răng nửa lời. Đến lúc trút hơi thở cuối cùng, hắn chỉ khẽ gọi bằng tiếng Ô Tạng: “Mẫu thân…”
Cho đến khi chết, Triệu Tham vẫn không phản bội chúng ta.
Chiến sự kết thúc, Thẩm gia trở về kinh phục mệnh. Ca ca dẫn ta về kinh, dự định bán nhà rồi không quay lại nữa. Ta còn đang lo nghĩ chuyện trả lại sính lễ cho Tạ Cảnh thì Thẩm Kinh Sương bảo không cần bận tâm, hắn sẽ thay ta trả món nợ ấy. Tạ Cảnh không muốn nhận lại số tiền, chỉ nói với bên ngoài rằng sính lễ đã được hoàn trả đầy đủ. Nhưng không hiểu sao Thẩm thiếu tướng quân lại còn gửi thêm cho hắn một khoản bạc lớn.
Nghĩ kỹ mới hiểu: không phải Tạ Cảnh đột nhiên tốt bụng, mà bởi số tiền này, chỉ cần hoàng đế tra xét là biết ngay đó là sính lễ của Cảnh Vương. Nếu vậy, tại sao số bạc ấy lại xuất hiện ở quân doanh? Hoàng đế càng dễ sinh nghi. Thà cứ giả vờ khiêng mười tám rương không về còn hơn.
Cũng giống như chuyện thánh chỉ, hoàng đế và Thẩm gia đều giả vờ không biết, ngoài mặt tỏ ra quân thần đồng lòng. Khi luận công ban thưởng, Thẩm Kinh Sương chẳng đòi hỏi gì, chỉ xin Ô Tạng chôn cất Triệu Tam đàng hoàng rồi đưa hài cốt về quê hương. Ai cũng biết Thẩm Kinh Sương chỉ mong đưa Triệu Tam về quê an táng tử tế. Trong buổi tiệc, hắn nâng chén rượu, cố ý nhìn về phía hoàng đế, giọng nói đầy ẩn ý: kẻ phản bội đáng bị bêu xác ngoài cổng thành để lưu tiếng xấu muôn đời. Hoàng đế nghe vậy thì sặc rượu, đỏ mặt ho khan hai tiếng.
Mọi chuyện rồi cũng lắng xuống đúng dịp tết Nguyên tiêu. Kinh thành rực rỡ ánh đèn, phố phường náo nhiệt, sắc màu tưng bừng lan tỏa khắp nơi. Người người ăn vận lộng lẫy, nam tử búi tóc cài trâm ngọc, nữ nhi váy áo thướt tha, ai nấy đều rạng rỡ khoe sắc. Cả thành dường như chìm trong không khí thái bình, phồn vinh.
“Lần này chúng ta đã thực sự chọc giận Ô Tạng, Thánh Thượng cũng không dám dễ dàng động vào Thẩm gia nữa. Phụ thân đã xin lệnh cho Thẩm gia đời đời trấn thủ Bắc Cảnh.”
“Ta không vì hoàng đế hay Tạ gia mà liều mạng, tất cả là vì bách tính phía sau Bắc Cảnh.”
Thẩm Kinh Sương ngập ngừng hỏi ta:
“Nàng quyết định rồi chứ? Ta nghe Bùi huynh nói sau này nàng cũng không trở lại kinh thành nữa?”
Ta gật đầu, nhưng trong đầu lại vang lên lời Tạ Cảnh từng nói bên vách đá:
“Khi xưa ta lấy hắn, ba năm sau thành thân lại sống lại một lần, tính cả kiếp trước cũng coi như từng tái giá.”
“Như lời Tạ Cảnh nói, ta từng thật lòng muốn lấy lòng hắn.”
Ta lặng lẽ nhìn Thẩm Kinh Sương, trong lòng vẫn còn lo sợ. Ta sợ hắn nghe theo lời Tạ Cảnh, sợ hắn nghĩ ta là người dễ dãi, sợ hắn để bụng chuyện cũ.
“Vậy hắn đối xử với nàng thế nào?”
“Không tốt lắm.” Ta suy nghĩ một chút rồi nói khẽ: “Vì vậy chàng có thể cân nhắc lại, nếu chàng muốn đổi ý…”
Thẩm Kinh Sương bật cười:
“Ta chỉ tiếc hôm đó không đánh cho hắn một trận ra trò!”
Ta ngạc nhiên, còn chưa kịp nói gì thêm thì hắn đã kéo ta đi xem điều bất ngờ mà hắn chuẩn bị. Hóa ra là dẫn ta đến Ngọc Y Lâu – tiệm may nổi tiếng nhất kinh thành. Các nương tử ở đó trang điểm cho ta, giúp ta thay bộ váy trắng lụa mỏng, ánh sáng trong phòng khiến bộ váy càng thêm rực rỡ.
Khi chọn trang sức, ta bỗng nhớ tới chuỗi vòng ngọc lục bảo mà Thẩm Kinh Sương từng tặng.
“Đây là trang sức Ô Tạng sao? Hồi thánh nữ Ô Tạng vào kinh, chúng ta chỉ dám đứng xa nhìn, không ngờ lại tinh xảo đến vậy!”
Các cô nương truyền tay nhau chiêm ngưỡng, trầm trồ khen ngợi. Dây chuyền ấy che đi vết sẹo ngang mặt, khiến ta ngẩn ngơ trước gương. Mỗi lần ta nhíu mày hay mỉm cười, chuỗi hạt lại lấp lánh muôn ánh sáng, khiến hình bóng trong gương trở nên cuốn hút lạ thường.
“Cô nương mặc váy trắng thế này nhìn chẳng khác nào đóa loa kèn đọng sương.”
“Hôm nay tết Nguyên tiêu, chắc chắn sẽ có nhiều công tử để ý, tiểu tướng công kia e là phải ganh tị lắm!”
“Mau ra ngoài đi, tiểu tướng công đang đợi sốt ruột rồi kìa!”
Các cô nương cười rạng rỡ, đẩy ta ra cửa. Ngoài kia, Thẩm Kinh Sương đứng đợi, tay cầm kẹo mạch nha, kẹo hồ lô, cổ tay treo một chiếc đèn lồng hình thỏ. Ta vỗ vai hắn, hắn quay lại, bất giác sững người.
“Đẹp không?”
Hắn nhìn ta thật lâu, mặt đỏ bừng, chỉ biết gật đầu.
Phố phường rực rỡ đèn hoa, nhưng ánh mắt Thẩm Kinh Sương chỉ dõi theo ta. Ta vừa quay đầu cười thì bắt gặp ánh mắt hắn, hắn như bị điện giật, vội quay đi, chỉ vào chiếc đèn lồng nhạt màu:
“Nàng xem, đèn lồng này đẹp… đẹp lắm!”
Thật ra đó chỉ là biển hiệu trước cửa tiệm, chẳng có gì đặc biệt…
Có lẽ vì chiếc đèn lồng thỏ mà Thẩm Kinh Sương mua quá đẹp, nên rất nhiều công tử khác cũng tò mò, hỏi mua ở đâu.
Ta cũng chẳng hiểu vì sao, đó chỉ là một chiếc đèn lồng hình thỏ bình thường, bán đầy ở ven đường, mười đồng một cái. Vậy mà từ chuyện hỏi mua đèn, mọi người lại chuyển sang tò mò về thân thế của ta, hỏi ta là con gái nhà ai, đã có nơi có chốn chưa. Số người tò mò càng đông, sắc mặt Thẩm Kinh Sương càng tối sầm lại.
Đúng lúc ấy, đôi tai thỏ của chiếc đèn lồng không dính chặt, rơi lăn lóc xuống đất. Ta vừa cúi xuống nhặt thì một người khác đã nhanh tay nhặt lên trước và đưa cho ta.
“Cảm ơn công tử.”
Ánh mắt vừa chạm nhau, cả hai đều sững sờ – là người quen cũ. Tạ Cảnh. Hắn nhìn ta ngỡ ngàng, như không tin vào mắt mình:
“…Nàng là Bùi Nguyệt?”
Thẩm Kinh Sương thấy vậy thì chẳng buồn giữ đèn lồng nữa, nhét thẳng vào tay Tạ Cảnh, hậm hực nói:
“Của ngươi đấy!”
Nhân lúc Tạ Cảnh còn đang ngơ ngác, Thẩm Kinh Sương lập tức kéo ta băng qua cầu, chỉ khi đến nơi vắng người hắn mới thở phào, bực bội ngồi xuống bãi cỏ.
“Ta không nên tặng nàng cái này, ngày trước cứ tưởng nàng thích đeo nên mới…”
“Nàng đeo cái này rõ ràng là hoa huệ mạ vàng, thật là dư thừa…”
“Ngày mai, không, ngay tối nay về Bắc Cảnh, ta sẽ không quay lại nữa!”
“Ta không phải ghen đâu, chỉ là… chỉ là nhìn thấy Tạ Cảnh là lại thấy khó chịu. Giờ cứ nhìn thấy người nhà Tạ gia là ta đã thấy bực rồi!”
Càng nói, sự ghen tuông của hắn càng lộ rõ.
“Ta thấy vết sẹo trên mặt mình thật xấu xí.”
Hắn bất ngờ ghé sát lại, nắm lấy tay ta, ánh mắt đầy lo lắng:
“Trên người ta cũng có nhiều vết sẹo hơn nàng, nàng có chê ta không…”
Hôm nay hắn mặc kín mít, từ cổ xuống chẳng để lộ chút da thịt nào, nhưng lại khiến mặt ta đỏ bừng. Ta ghé sát tai hắn, khẽ cười:
“Ta vốn định trêu chọc chàng vài câu, nói miễn cưỡng không chê.”
“Nhưng vì yêu chàng, nên ta không thể nói dối lòng mình.”
Lúc ấy, trăng sáng treo cao, hoa mai bên hồ nở rộ, cánh hoa không chịu nổi gió xuân thì thầm rụng đầy mặt đất. Một vài cánh hoa nhẹ nhàng lướt qua môi, xa xa pháo hoa rực rỡ, nhân gian vẫn nhộn nhịp tưng bừng.
Còn nơi này, trong khoảng lặng, chỉ có ánh trăng dịu dàng soi sáng cho một đôi người đoàn tụ.
(END)