Chương 2: Tội Nhân Giữa Hai Thế Giới
Tôi vốn là một phóng viên chuyên tác nghiệp tại các điểm nóng chiến sự. Ngày định mệnh ấy, khi bom đạn trút xuống, tôi mất đi ý thức và khi mở mắt ra thì đã bị cuốn vào thế giới này. Những ngày đầu, tôi cũng từng giống như Tưởng Văn Tuyết, ôm mộng trở thành người hùng, mơ tưởng có thể xoay chuyển vận mệnh lịch sử.
Nếu với cô ấy, chiến tranh chỉ là những dòng mô tả ngắn ngủi trong sách vở, thì với tôi, đó là thực tại tàn khốc từng ngày, từng giờ. Tôi đã tận mắt chứng kiến sự hủy diệt của chiến tranh: những gia đình tan nát, người thân ly biệt, những công trình đổ nát chỉ còn là đống tro tàn sau một trận oanh tạc, và cả những con người dù mất tất cả vẫn cố gắng mỉm cười với lũ trẻ xa lạ.
Nhưng tôi đã sai lầm. Sai lầm vì tự cho mình là trung tâm, vì nghĩ mình có thể thay đổi tất cả. So với quyền lực tối thượng, với ngai vàng và giang sơn, tôi chẳng là gì cả. Tôi đến từ thời bình, không thể hiểu hết được sức hút của quyền lực đối với con người. Dù Hứa Văn Diệp có yêu tôi, hắn cũng sẽ không vì tôi mà từ bỏ chế độ phong kiến. Tôi không thể đổi thay lịch sử, thậm chí còn đánh mất cả gia đình ở nơi đây.
Hứa Văn Diệp đã tru di cả nhà tôi, không tha cho bất cứ ai, kể cả con chó trung thành trong phủ cũng bị giết sạch, chỉ chừa lại mạng tôi. Tôi ôm lấy thi thể người thân, họ ra đi mà mắt vẫn chưa khép, còn bên tai tôi là giọng nói lạnh lẽo của Hứa Văn Diệp, như ma quỷ ám ảnh:
“Hoàng hậu, trẫm muốn nàng sống, để tận mắt chứng kiến giang sơn của trẫm ngày càng cường thịnh, để nàng thấy trẫm không bao giờ là kẻ mất nước như nàng nghĩ.”
Tôi chưa từng nói hắn là vua mất nước. Thực ra, hắn cũng không phải là kẻ mất nước, nhưng càng không phải là minh quân. Dưới sự trị vì của hắn, chiến tranh liên miên, quan lại tham ô, dân chúng lầm than. Tôi đã dốc hết sức mình, từng hy vọng có thể cảm hóa hắn, nhưng đổi lại, hắn treo đầu người thân tôi lên tường thành thị chúng, còn xác A Hoàng (con chó) thì bị nấu thành canh ép tôi ăn.
Tôi khóc ra máu, nôn ra máu, chỉ nghe thấy giọng nói lạnh như băng của hắn:
“Trầm Trầm, chẳng lẽ nàng chưa từng yêu trẫm? Nàng lấy trẫm chỉ để khuyên trẫm từ bỏ ngai vàng này thôi sao?”
Nước mắt rơi không ngừng, tôi nhìn hắn, trái tim đã nguội lạnh:
“Đúng, ta chưa từng yêu ngài.”
Hắn bật cười, nhưng nụ cười ấy chất chứa đau đớn:
“Tốt, rất tốt, chưa từng yêu ta, hay lắm.”
Từ đó, Hứa Văn Diệp càng trở nên tàn nhẫn. Hắn liên tục nạp thêm phi tần, phát động chiến tranh, phớt lờ mọi lời can gián của trung thần, trở thành một bạo chúa thực sự. Khi say, hắn thường tìm đến tôi, ôm chặt lấy tôi mà hỏi:
“Trầm Trầm, mọi chuyện bây giờ, có phải là điều nàng mong muốn không?”
Tôi không hề mong muốn điều đó. Nếu có cơ hội làm lại, tôi sẽ không tự cho mình là đúng, sẽ không can thiệp vào dòng chảy lịch sử, cũng không mơ tưởng có thể thay đổi người khác. Người đáng trách nhất, chính là tôi – một kẻ ngạo mạn, tự cho mình là trung tâm của mọi thứ.
Sau đó, Tưởng Văn Tuyết được thả ra. Nghe nói Hoàng thượng đích thân đến đón cô ta về cung. Cô ấy nằm dưỡng bệnh nửa tháng, đến khi thái y khám mới phát hiện đã mang long thai. Tôi suýt nữa đã gây nguy hiểm cho đứa trẻ ấy.
Khi tôi đến thăm, Tưởng Văn Tuyết nép mình trong vòng tay Hứa Văn Diệp, ánh mắt đầy sợ hãi, vừa thấy tôi liền nói:
“Văn Diệp, chàng bảo cô ta đi đi, đuổi cô ta ra ngoài!”
“Được rồi, đừng sợ, có trẫm ở đây, sẽ không ai dám làm hại nàng đâu.”
Ánh mắt Hứa Văn Diệp lạnh lùng nhìn tôi, giọng nói cũng lạnh băng:
“Hoàng hậu, mọi chuyện đã đến nước này, nàng còn gì để giải thích không?”
Có lẽ ngay cả bản thân Hứa Văn Diệp cũng không nhận ra, trong đáy mắt hắn vẫn còn chút hy vọng mong manh. Chỉ cần tôi tỏ ra yếu đuối, hắn sẽ không ngần ngại đẩy Tưởng Văn Tuyết ra, quay lại ôm lấy tôi, và sẽ không bao giờ buông tay nữa. Tôi nhìn thẳng vào mắt hắn, bình thản mà không hạ mình, chậm rãi đáp: “Thần thiếp không còn gì để nói.”
Hứa Văn Diệp khép hờ đôi mắt, rồi ra lệnh: “Người đâu, đưa vào lãnh cung.”
Ngày hôm sau, khi tôi vừa đặt chân tới lãnh cung thì Tưởng Văn Tuyết đã xuất hiện. Không có Hứa Văn Diệp bên cạnh, cô ta chẳng buồn che giấu thái độ, cũng không tỏ ra e dè gì với tôi. Cô ta đặt tay lên bụng, nhếch môi hỏi:
“Hoàng hậu, à không, giờ gọi cô là Hoàng hậu cũng không đúng nữa. Người ta vẫn nói ‘mẫu bằng tử quý’, cô đoán xem bao giờ Văn Diệp sẽ nhường ngôi vị ấy cho tôi?”
Tôi xoay nhẹ chuỗi hạt Phật trong tay, mỉm cười lạnh nhạt:
“Tưởng tiểu thư chẳng phải vẫn luôn cổ vũ nữ quyền, đề cao sự độc lập của phụ nữ sao? Vậy thì danh phận Hoàng hậu có gì quan trọng? Dù là Hoàng hậu hay Quý phi, trong thế giới của cô chẳng phải đều phải chung chồng với người khác? Hay giờ cô lại chấp nhận chia sẻ phu quân rồi?”
Lần đầu tiên tôi nói nhiều với cô ta như vậy, khiến Tưởng Văn Tuyết sững người, một lúc sau mới lắp bắp:
“Cô nói linh tinh gì vậy, Văn Diệp đã hứa với tôi, chàng ấy sẽ…”
“Sẽ giải tán hậu cung vì cô sao?” Tôi bật cười, như nghe một câu chuyện khôi hài:
“Tưởng Văn Tuyết, kiến thức lịch sử của cô chỉ đến thế thôi à? Nếu hiểu về vương triều phong kiến, hẳn cô phải biết hậu cung và triều chính gắn bó thế nào. Cô nghĩ Hứa Văn Diệp sẽ vì cô mà đối đầu với các đại thần? Cô thử đoán xem, giang sơn và mỹ nhân, ngài ấy sẽ chọn bên nào?”
Tưởng Văn Tuyết không còn tâm trí tranh luận, mắt đỏ hoe, vội vã bỏ đi, chắc lại chạy đến tìm Hứa Văn Diệp để làm loạn.
Tiểu Thúy nhìn tôi, ánh mắt tràn đầy xót xa:
“Nương nương, năm xưa ngài cũng từng có thể mang long thai…”
Tôi dịu dàng hỏi lại:
“Tiểu Thúy, em còn nhớ ta từng dặn gì không?”
Nàng nghẹn ngào đáp:
“Nô tỳ nhớ, nữ nhân không phải là công cụ sinh con nối dõi, cũng không nên dùng con cái để tranh giành tình cảm. Nhưng nương nương, em ở bên ngài bao năm, em biết ngài yêu trẻ con đến nhường nào…”
Tiểu Thúy bật khóc, vội đưa tay che miệng để không ai nghe thấy tiếng nức nở. Tôi thở dài, ôm lấy nàng, vỗ về an ủi:
“Đừng khóc, ta không cảm thấy tủi thân đâu. Ta thà không có con suốt đời, còn hơn sinh con cho một kẻ như Hứa Văn Diệp.”
Đúng vậy, không phải tôi không thể sinh con, mà là tôi đã chủ động uống thuốc tránh thai suốt thời gian qua. Có một điều mà Tưởng Văn Tuyết không biết: tôi và các phi tần trong cung chưa từng tranh đấu với nhau, chúng tôi như chị em, họ biết bí mật của tôi, hiểu vì sao tôi cố gắng đến vậy. Điều họ lo lắng không phải là bị người ngoài chỉ trích, mà là không muốn bỏ tôi lại một mình trong chiếc lồng son này, đơn độc chống chọi.
Tôi không bao giờ muốn con mình có người cha như Hứa Văn Diệp, cũng không muốn đứa trẻ ấy sinh ra trong hoàng tộc. Con tôi xứng đáng được lớn lên ở một thời đại hòa bình, là một đứa trẻ bình thường, không phải chịu cảnh loạn lạc, không phải gánh vác số phận nặng nề. Nếu tôi không thể bảo vệ con, thì chẳng có lý do gì để bắt con phải chịu khổ.
Khi Tiểu Thúy đã bình tĩnh hơn, tôi vỗ vai nàng, hỏi nhỏ:
“Mấy đứa kia thế nào rồi, vẫn ổn chứ?”
Tiểu Thúy gật đầu:
“Vâng, chỉ là dạo này vì Tưởng Văn Tuyết gây chuyện, triều đình kiểm tra gắt gao hơn, còn thay đổi cả đội Cẩm y vệ. Nô tỳ phải cho các cô ấy đổi chỗ mấy lần mới tránh được bị phát hiện.”
Tôi khẽ thở dài, dịu dàng nói: “Mấy đứa đã chịu nhiều thiệt thòi rồi.”
Tiểu Thúy vội lắc đầu, nghẹn ngào: “Nương nương đừng nói vậy, chính ngài đã cứu giúp bọn em…”
Tôi lắc đầu, giọng chắc nịch: “Không phải đâu. Là ta đã kéo các em vào bi kịch này.”
Nếu không có sự xuất hiện của tôi, có lẽ Hứa Văn Diệp sẽ không trở nên cực đoan như bây giờ, sẽ chẳng có bao nhiêu cuộc chiến tranh đẫm máu, và biết đâu, nhiều người vẫn còn giữ được mái ấm của mình.
Tiểu Thúy thở dài, ánh mắt buồn bã: “Đáng tiếc, giờ nương nương bị giam trong lãnh cung, không thể như trước đây lén ra ngoài gặp bọn em. Nếu các em được gặp lại ngài, chắc chắn sẽ rất vui.”
Nhắc đến đó, Tiểu Thúy lại rưng rưng, còn tôi cũng không kìm được mà mắt đỏ hoe. Cả hai lặng thinh, chẳng ai nói thêm lời nào nữa.
Hứa Văn Diệp không đến tìm tôi. Ngược lại, Tưởng Văn Tuyết lại thường xuyên xuất hiện, mỗi lần đều tỏ ra đắc ý, khoe khoang quyền lực. Bụng cô ta ngày một lớn, nghe nói sắp đến ngày sinh nở.
Vào ngày đông chí, trận tuyết đầu mùa phủ trắng cả cung thành. Tôi đứng bên cửa sổ ngắm tuyết rơi, còn Tiểu Thúy vừa trở về, tay không, nói:
“Phòng Kính Sự không chịu cấp than củi, nương nương mặc thêm áo ấm đi kẻo lạnh. Đúng là bọn nô tài chỉ biết nịnh trên nạt dưới, trước kia còn nhờ ngài mà được hưởng phúc, giờ thì chẳng còn chút lương tâm nào.”
Tôi lắc đầu, ho mấy tiếng rồi hỏi: “Mấy đứa đã gửi thư chưa?”
Tiểu Thúy liếc nhìn ra ngoài, đóng cửa lại, rồi đưa tôi một bức thư nhỏ: “Có rồi ạ!”
Tôi vừa định mở thư thì bên ngoài vang lên tiếng ồn ào. Tưởng Văn Tuyết dẫn theo một nhóm thị vệ xông vào, lớn tiếng:
“Hoàng hậu nương nương, ngài lén lút liên lạc với người ngoài, tang chứng vật chứng đầy đủ, nên xử tội gì đây?”
Tiểu Thúy hoảng sợ nhìn tôi, lúc này mới nhận ra mình đã bị theo dõi. Cả hai chúng tôi nhanh chóng bị áp giải vào đại lao.
Bức thư kia, bọn họ dù có cầm cũng không thể đọc được. Đó là mật mã Morse mà tôi đã dạy cho các em, chỉ riêng Tưởng Văn Tuyết nhận ra đó là mã Morse, nhưng cô ta cũng chẳng hiểu nổi nội dung.
Cô ta chỉ tay vào tôi, giọng run rẩy:
“Cô… cô cũng là người xuyên không đến đây?”
Tôi nhìn cô ta bằng ánh mắt lạnh lùng, đáp:
“Bản cung không hiểu cô đang nói gì.”
“Đừng giả vờ! Đây là mã Morse, người cổ đại làm sao biết được thứ này. Cô cũng là người xuyên không! Tôi không hiểu, tại sao cô không hợp tác với tôi, chẳng lẽ cô định nhìn đất nước này chìm trong đau thương? Diệp Tinh Trầm, lòng dạ cô thật độc ác!”
Thật bất ngờ khi cô ta biết cả tên tôi. Tôi vẫn giữ vẻ lạnh nhạt, nhếch môi nói:
“Bản cung không hiểu ý của cô.”
Tưởng Văn Tuyết tức tối, giật lấy cây roi trên tường, quất mạnh vào người tôi:
“Cô giả vờ không biết à! Không chịu hợp tác à! Đồ đàn bà độc ác! Cô sẽ mãi bị nguyền rủa trong sử sách, bị thiên hạ mắng là quân bán nước!”
Máu thấm đỏ lớp áo trong của tôi, ý thức dần mờ đi. Trong cơn mê man, tôi như thấy bóng dáng mẫu thân và A Hoàng, cả hai đang mỉm cười với tôi.